1. Dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
* Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên bao la, vô tận
Những vòng nước đuổi nhau đến tận chân trời
Qua khổ thơ còn thể hiện nỗi buồn vô tận của tác giả.
Trôi trên dòng sông hữu tình của tác giả
Tâm trạng chia ly, tản mạn
* Khổ 2: Không gian, thời gian qua bài thơ
Không gian vắng vẻ, vắng vẻ
Không gian yên tĩnh, tĩnh lặng
Không gian bị đẩy vô tận
Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Tràng Giang hiện ra một bức tranh thiên nhiên và không gian núi rừng bao la. Bên cạnh đó tác giả còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả.
Qua bài thơ, ta hiểu được phong cách thơ độc đáo của tác giả Huy Cận.
2. Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang hay nhất:
Là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, Huy Cận đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ “Tràng Giang” được ông viết trong thời kỳ trước cách mạng với một nỗi buồn, sự bế tắc của một kiếp người trôi nổi không điểm dừng. Nỗi buồn ấy được thể hiện rất rõ trong hai khổ thơ đầu.
Mở đầu bài thơ, Huy Cận cho người đọc thấy những hình ảnh rất quen thuộc: sóng, thuyền, sông để gợi cảm xúc:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song”
Tác giả khéo léo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” để gợi tả một không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đây cũng là một trong những phong cách thơ nổi bật của Huy Cận. Lúc này, tâm trạng nhà thơ trở thành “buồn điệp điệp” – nỗi buồn được cụ thể hóa, được ví như những con sóng vỗ vào nhau, nối tiếp nhau cập bờ. Nỗi buồn ấy dường như tồn tại mãi, âm ỉ và dai dẳng trong lòng tác giả. Từ “song song” dường như ám chỉ hai thế giới dù luôn ở gần nhau nhưng lại không bao giờ gặp nhau.
Qua 2 câu thơ tác giả đã cho ta thấy sự lẻ loi của con đò trên sông, là hình ảnh ẩn dụ cho hình ảnh lẻ loi của con người trên dòng sông cuộc đời. Huy Cận đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập, tương phản tạo nên nét cổ kính cho bài thơ. Thuyền và nước luôn gắn bó mật thiết với nhau nhưng qua cách diễn đạt của nhà thơ lại có tác dụng ngược lại, lạc nhịp, gợi cảm giác xa vắng, cô đơn.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”
Có lẽ Huy Cận là người đầu tiên sử dụng hình ảnh cành củi khô trong thơ mình, một hình ảnh độc đáo và táo bạo. Tác giả muốn cho mọi người thấy những nét đột phá trong phong trào thơ mới, khi trước đây, những điều tầm thường hiếm khi được phép có. Hình ảnh củi khô giữa đời thường với vẻ đẹp giản dị nhưng lại có giá trị biểu cảm vô cùng to lớn. Huy Cận đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và chọn lọc những từ đơn để diễn tả nỗi cô đơn của cảnh củi khô lênh đênh giữa mênh mông nước.
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả miêu tả một khung cảnh vắng vẻ với một không gian rộng mở:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Các từ “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi lên sự nhỏ bé, ít ỏi trong một không gian vô định – đây chính là sự cảm nhận bằng hình ảnh. Ngoài thị giác, tác giả còn cảm nhận thính giác với những âm thanh của cuộc sống và tiếng làng xa trong tiếng chợ chiều. Màu nắng chiều cùng với cảnh sông dài, trời rộng, bến vắng gợi tả nỗi cô đơn, buồn tủi của con người trước cuộc đời. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được nỗi sợ hãi vô vọng của tác giả khi không tìm thấy mối liên hệ nào với cuộc sống.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận mang đến một không gian bao trùm với nỗi cô đơn, buồn bã vô tận. Một con người cô độc, đơn độc trước dòng đời hối hả, không tìm được mối liên hệ với thế giới bên ngoài. Có lẽ vì thế mà tác phẩm luôn được nhiều độc giả yêu thích, không bị lớp bụi thời gian che lấp.
3. Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang ngắn gọn nhất:
Trong cánh đồng văn chương màu mỡ, người nghệ sĩ như một hạt bụi bay trong không trung để tìm chút dư vị còn sót lại. Với Huy Cận, ông về với chốn bình yên của quê hương, quê hương ấy là dòng sông đỏ nặng phù sa, cảm hứng của ông bắt nguồn từ đó và đọng lại trong “Tràng Giang” được thể hiện qua hai khổ thơ đầu của bài thơ.
“Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Không có cảm xúc, người nghệ sĩ không thể làm thơ, ngôn từ chỉ là những con chữ nằm trên trang giấy. Trước hết, nhà thơ phải là người có tâm hồn, giàu rung cảm, thấu cảm trọn vẹn trước những thời khắc của cuộc đời để tràn đầy cảm xúc mãnh liệt. Chính những cảm xúc đó đã thôi thúc tác giả viết về quê hương bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc. Huy Cận với cảm xúc, ông đã chuyển hóa thành cảm xúc và làm thơ. Và Tràng Giang là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, ca từ dạt dào cảm xúc và vào một buổi chiều năm 1939 tác giả đứng ở bờ nam Bến Tràng, trước mặt là sông Hồng mênh mông, cảm xúc thời thế dồn lại với cái tôi quá nhỏ bé với vũ trụ bao la. Thế là ông viết bài thơ này, hai khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh sông Hồng mênh mông, cảm xúc xưa cũ của nhà thơ trước cảnh vật.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
đâu tiếng Làng xa vãn chợ chiều
nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Khổ thơ đầu là cảnh sông Hồng nhấp nhô sóng vỗ, ở khổ thơ đầu tác giả sử dụng hàng loạt từ: “thuyền, nước” là những từ mà các nhà thơ xưa đã dùng để miêu tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Đây như một bức tranh màu nước, toàn cảnh sông nước thơ mộng, êm đềm nhưng buồn đến tê tái. Nói về nỗi buồn ấy, Hoài Thanh nhận xét: “Thiên nhiên trong thơ đẹp nhưng chứa chan nỗi buồn”. Nỗi buồn đó được Huy Cận lý giải rằng “lúc đó chúng tôi có một nỗi buồn thế hệ, một nỗi buồn không tìm được lối thoát nên kéo dài mãi”. Đó là nỗi buồn của người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có lẽ vì thế mà trên dòng Tràng Giang chỉ có một nỗi buồn mênh mang.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song”
Từ “điệp điệp” là để diễn tả những gợn sóng lăn tăn hết lớp này đến lớp khác, không có điểm dừng. Điệp buồn thể hiện nỗi buồn của thiên nhiên nhưng thực ra là nỗi buồn của thi nhân, gợn sóng lăn tăn. Những con sóng vỗ vào bờ. Thuyền và nước là hai cảnh vật luôn đi cùng nhau, không bao giờ tách rời nhưng trong mắt Huy Cận lại trở nên cô đơn, lạc lõng. Từ đó, cảm xúc của nhà thơ lan tỏa ra vũ trụ “nghĩa trăm phương” nơi không gian vừa được mở ra theo chiều rộng, vừa mở ra theo chiều dài. Vì vậy, hình ảnh này làm ta liên tưởng đến hai câu thơ “trăng cao” của Đỗ Phủ:
“vô biên niên mộng tiêu tiêu hạ Bất tận Trường Giang cổ cổ lai”
Con thuyền là sự hiện diện của cuộc đời một con người, nhưng rồi sự xuất hiện ấy chỉ thoáng qua trong giây lát rồi nép vào bờ. Trở về bình yên ngắm sóng “Con thuyền xuôi ngược” Đây là sự liên tưởng đến một kiếp người trôi dạt, có lẽ tác giả cũng sống trong hoàn cảnh đó.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Ở hai câu thơ này, Huy Cận đã sử dụng phép tương phản rất táo bạo. Chỉ đối lập và đối lập nhưng câu thơ vẫn cân đối hài hòa giữa con thuyền và cành củi khô bấp bênh trên sông Trường Giang. Trong thơ Huy Cận nói nhiều đến nỗi buồn cổ kính, nỗi buồn của mùa thu. Đến với bài thơ này ta lại bắt gặp một nỗi buồn khác “buồn trăm bề”, không chỉ với ba chữ này ta thấy nỗi buồn của nhà thơ lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Nếu như trong thơ Xưa, nhà thơ thường sử dụng các chất liệu như tùng, cúc, trúc, mai thì ở đây Huy Cận đưa ra một hình ảnh rất quen thuộc, đời thường “Củi khô”. Nguyễn Đăng Mạnh đã viết rằng “lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại, có một cây củi khô nổi giữa thơ Huy Cận”. Cũng như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này được coi là khổ thơ đặc sắc nhất, bởi ở đây mang một âm điệu buồn, người ta phát hiện ra một cảnh thiên nhiên buồn. Cảnh trời rộng sông dài ở đây gợi tả sự bao la, trống trải, thể hiện nỗi buồn triền miên của Huy Cận và cảnh sông Hồng.
Bên cạnh nỗi buồn cổ kính, nỗi buồn mùa thu, nỗi buồn ấy dường như được nhân lên gấp bội. Bức tranh sông nước được vẽ thêm nhiều đất, nhiều làng nhưng vẫn buồn đến tê tái, nỗi buồn ấy được gợi lên từ những cồn nhỏ, thêm vào đó là tiếng gió, sự tĩnh lặng của cảnh vật:
“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Tiếng chợ đã tắt không ai để ý. Như vậy, nhà thơ dùng tĩnh và tả để thể hiện nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ, hai dòng tiếp theo của khổ thơ, bức tranh Tràng Giang vô biên đã kéo dài đến vô tận.
“nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Ở đây Huy Cận miêu tả không gian ba chiều giữa cảnh và người, nhà thơ như một vật nhỏ chơi vơi giữa bến với những tia nắng chiếu xuống mặt đất trong xanh làm ta liên tưởng đến bầu trời xanh. Ở đây, tác giả không dùng từ “chót vót” mà dùng từ “sâu” để gợi tả độ cao của trời xanh, qua đó cho ta thấy trước khung cảnh ấy, con người càng lạc lõng, cô đơn cùng với nhau. Chính sự tương phản ấy đã tạo nên cho hai khổ thơ này một nỗi buồn tê tái, thấm đượm cảm xúc của nhà thơ và nỗi buồn ấy chất chứa nỗi buồn muôn thuở của tác giả.
Thành công của hai khổ thơ là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu cổ, ngôn từ giản dị, giàu hình ảnh. Sang trang thơ Huy Cận, ta không khỏi quên nỗi buồn tê tái của nhà thơ trước khung cảnh, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm phong cách Huy Cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và trong lòng người đọc.
4. Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang đạt điểm cao nhất:
Mỗi nhà thơ trong phong trào Thơ mới khoác lên mình một bộ cánh hiện đại khác nhau, một phong cách, một giọng điệu riêng không thể tìm thấy ở giọng điệu của ai khác. Còn Huy Cận, với nỗi buồn nhân thế và nỗi buồn vũ trụ, ông góp nhặt chút buồn tản mạn để thu vào những vần thơ đa cảm trong “Tràng Giang”. Đặc biệt với hai khổ thơ đầu của bài thơ, bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, buồn bã với tâm trạng bơ vơ, bế tắc đã góp phần tạo nên một sắc thái rất riêng, rất Huy Cận.
Có thể nói, mỗi khổ thơ trong Tràng Giang được ví như một bài thơ riêng biệt, mỗi khổ thơ vừa mang hương vị cổ điển vừa hiện đại, chứa đựng những nét hấp dẫn riêng. Khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh “Tràng Giang” gợi một dòng sông dài hùng vĩ với những bọt sóng tung trắng xóa, tượng trưng cho sự hùng vĩ của thiên nhiên, sông nước. Nhưng, những con sóng ấy bao giờ cũng êm đềm, tựa đầu vào nhau trong những “điệp khúc” buồn. Con thuyền lại xuất hiện, đó là một hình ảnh quen thuộc ta đã thấy trong nhiều bài thơ tứ tuyệt khác:
“Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”(Con thuyền buộc chặt mối tình quê).
(Thu hứng – Đỗ Phủ).
Con thuyền trên sông tiễn biệt người bạn tri kỷ trong thơ Lý Bạch trong bài “Tống Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”:
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.”
Hình ảnh con thuyền đã trở thành câu thơ quen thuộc, cổ điển thường gợi nỗi cô đơn. Con đò ấy trôi vô tận trên sông nước gợi lên nỗi cô đơn, vô định của kiếp người. Thuyền và nước gắn kết với nhau, ở đây sông và thuyền chia đôi, thuyền song song xuôi dòng, từ đó mới thấy được sự bơ vơ, lạc lõng của một kiếp lênh đênh. Để con thuyền và dòng nước vốn gắn bó mật thiết với nhau lại phải cách xa nhau khiến cho “con thuyền buồn trở về” để lại một dòng sông buồn. Tâm hồn bạn có mất đi nỗi buồn không? Câu cuối của khổ thơ là một hình ảnh sinh động lồng trong bài thơ, cũng là tinh thần thơ mới mẻ, sáng tạo của Huy Cận để thấy ý nghĩa “tập cổ mà không nệ cổ”:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh cành củi khô đã được Huy Cận chọn lọc và thể hiện tài hoa. Nếu như thơ trung đại thường chọn những hình ảnh ước lệ sang trọng thì ở thơ Huy Cận, ông sẵn sàng đưa chất sống phong phú, gần gũi của đời thực “cành khô” vào thơ rất chân thực và gần gũi với cuộc sống hàng ngày và khiến cho những vật vô tri vô giác cũng có linh hồn. Cành khô gợi sự sống khô héo, mục nát, mất sức sống, hoặc chết vì củi khô không còn sự sống. Nhưng buồn hơn, đau đớn hơn là khúc gỗ khô bị “lạc mấy dòng” thể hiện nỗi cô đơn, mất mát, bế tắc của kiếp người. Phải chăng hình ảnh cành củi khô lạc lõng giữa những dòng thơ ấy hay chỉ là ẩn dụ cho thân phận, số phận của những con người lênh đênh, lạc lõng giữa dòng đời tất bật, hối hả này? Qua đó, thể hiện một cách kín đáo nỗi xót xa của Huy Cận. Ở khổ thơ thứ hai, khung cảnh được vẽ bằng những đường nét thê lương hơn:
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Hình ảnh những ngọn cỏ xơ xác một lần nữa tô điểm thêm cho nét vẽ tồi tàn, tồi tàn của cảnh vật chỉ còn bức tranh cuộc sống còn lay lắt, đạm bạc. Chợ là biểu tượng cho nhịp sống, nhịp sống kinh tế sôi động, nhộn nhịp của một vùng. Tuy nhiên, tiếng chợ nơi đây cứ vang vọng đâu đây, cuộc sống từ lâu đã đi vào trạng thái ngưng trệ, không còn nhộn nhịp như trước. Tiếp tục những nét vẽ cho bức tranh phong cảnh, không gian càng hiện ra hùng vĩ hơn. Nắng đổ xuống đáy sông và hình ảnh bầu trời nhô cao làm cho mặt phẳng không gian như bị chia cắt, dồn nén, cắt khúc ở giữa gây cảm giác ngột ngạt, khó chịu cho nhân vật trữ tình. Sông dài mà bến vắng, một lần nữa nỗi cô đơn hiện ra đầy u buồn càng thấm sâu vào không gian ba chiều, tê tái đi vào lòng người.
Qua hai khổ thơ đầu, với những hình ảnh cổ điển quen thuộc xen lẫn hiện đại, đúng với tinh thần của cái tôi thơ Mới. Đó cũng là nỗi buồn, nhưng không còn gắn với những quan niệm, chuẩn mực đạo đức, chữ hiếu như thơ ca trung đại mà là nỗi buồn của những cá nhân cảm thấy bơ vơ, bế tắc, lạc lõng trong thực tại. Thiên nhiên vì thế rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại rất hiu quạnh, hoang vắng. Bằng tình yêu thiên nhiên và trái tim của một nhà thơ Mới, bằng chính giọng điệu của mình, Huy Cận đã tạo nên những vần thơ tinh tế, thấm đượm cảm xúc buồn.